Đề bài: Bình giảng đoạn thơ trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm
Bài làm:
Năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc, Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên kia sông Đuống”, là một kiệt tác của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Giai điệu thiết tha của dân ca Quan họ thấm vào từng vần thơ. Thông qua khổ thơ đầu nhà thơ vừa gợi mở cho người đọc những ấn tượng đầu tiên về bức tranh quê hương nhiều màu sắc.
Mở đầu bài thơ, tuy cảm xúc vẫn đang khắc khoải, trực trào ra bên ngoài nhưng giọng thơ vẫn thể hiện sự điềm tĩnh, da diết, đó chính là lời tâm tình của nhà thơ:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Đoạn thơ mở đầu bằng một tiếng gọi trìu mến thân thương để bày tỏ sự vỗ về an ủi của tác giả đối với một người “em” nào đó. Có thể đây là người em tưởng tượng nhưng thường trực trong trái tim tác giả. Phải chăng một cô gái nào đó cùng quê bên kia sông Đuống với Hoàng cầm? Điều đó làm cho lời thơ của tác giả trở nên trữ tình, thơ mộng hơn và dễ gây được sự đồng cảm sẻ chia đối với người đọc. Và phải chăng đại từ “em” trong câu thơ trên còn là sự phân thân của tác giả để tạo cho hoài niệm, vừa cụ thể vừa tạo cảm giác ảo thực rất thi vị.
Thông qua niềm hoài niệm ấy, nhà thơ đã trở về với con sông Đuống trong cuộc sống thanh bình ngày xưa của mình. Dòng Sông Đuống vốn êm đềm yên ả, lặng lẽ “trôi” bất tận giữa lòng đất nước từ bao đời nay với cái màu “cát trắng phẳng lì” rất mực bình yên thơ mộng. Nhưng nay trong cái cảm giác mất hay còn, nhà thơ cảm thấy sông Đuống như “lấp lánh” sắc màu hơn, hắt ánh sáng cầu vồng lên quê hương rực rỡ, lộng lẫy:
Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Cái dáng nằm “nghiêng nghiêng” ấy của sông Đuống làm cho nó trở thành một sinh thể xinh xắn, duyên dáng, lãng mạn mà có tâm trạng như khắc khoải lo âu hơn, vì bên kia sông quân giặc đã tràn về. Đó là con sông hiện lên trong tâm tưởng của nhà thơ.
Qua tấm lòng yêu thương đầy tiếc nuối về quê hương Kinh Bắc của tác giả, cảnh bờ bãi ven sông cứ trải ra với một màu xanh trù phú, màu mỡ, bát ngát “Xanh xanh bãi mía bờ dâu – Ngô khoai biêng biếc”. Tác giả không dùng chữ “xanh”, chữ “biếc” mà dùng từ láy “xanh xanh”, “biêng biếc” làm cho cái màu xanh thanh bình, sự sống và hy vọng cứ mở ra vô tận, hút tầm mắt trong niềm nhớ tiếc khôn nguôi xen lẫn tự hào của thi nhân về quê hương giàu đẹp. Hình ảnh thơ do đó vừa mang giá trị tạo hình, vừa có ý nghĩa biểu cảm
Như vậy chỉ bằng mấy câu thơ đơn sơ mà Hoàng cầm đã tạo dựng lên được một bức tranh quê hương xứng đáng là một bức tranh sơn mài với những đường nét, màu sắc hài hòa tuyệt đẹp. Bức tranh được phác thảo bằng một vài nét chấm phá tài hoa với cái màu cát trắng phẳng lỳ xen lẫn với cái “xanh xanh bãi mía bờ dâu” trải dài nối tiếp với cái “biêng biếc ngô khoai”. Nhưng trở lại với thực tế nhà thơ không khỏi xót xa, bồi hồi:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Từ Việt Bắc, từ bên này nhìn về chi còn là một nỗi nhớ tiếc. Cho nên tác giả có cảm giác “sao xót xa như rụng bàn tay”. Điệp từ sao được nhắc lại “sao nhớ tiếc”, “sao xót xa” như một nốt nhạc láy lại như sâu thêm nỗi day dứt chồng chất, dồn lên nỗi đau đến bàng hoàng quặn thắt khi quê hương thanh bình giàu có bỗng chốc bị chìm trong máu lửa. “Như rụng bàn tay” là một hình ảnh thơ tuyệt hay. Trước hết nó diễn đạt một cảm xúc rất cảm động, giặc chiếm quê hương là như chiếm một phần thân thể, như đứt tay rụng chân của mình vậy.
Qua hình ảnh thơ, Hoàng Cầm dường như đã biến nỗi đau tinh thần thành nỗi đau thể xác như cảm giác được.
Với đoạn thơ trên Hoàng Cầm đã thể hiện sự tài hoa của mình khi viết về sông Đuống, quê hương Kinh Bắc của tác giả. Đoạn thơ cũng nêu bật lên được tình cảm yêu nước sâu sắc, mãnh liệt và sự căm giận trước tội ác của giặc Pháp xâm lược đối với con người Việt Nam.