Đề bài: Phân tích khổ 3 bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Bài làm:
Trong phong trào thơ Mới, Huy Cận được xem là hồn thơ cổ điển nhất. Ông có nhiều sáng tác mang đậm nét cổ điển xen lẫn hiện đại tiêu biểu là Bài thơ Tràng Giang. Hai khổ thơ đầu bài thơ tác giả đã khắc hoạ thành công vẻ đẹp của thiên nhiên sông nước mang sắc màu trầm buồn man mác. Đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục lột tả vẻ đẹp trầm mặc của thiên nhiên cũng như bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình.
Trước khi đi vào phân tích khổ 3 bài thơ Tràng giang chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Nhà thơ Huy Cận từng chia sẻ: “Trước cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc”. Đứng trước khung cảnh thiên nhiên mênh mông, bát ngát đó, nhà thơ đã gửi gắm nỗi niềm tâm sự sâu kín của mình vào bài thơ. Tiếp nối hai khổ thơ đầu thì khổ thơ thứ ba tiếp tục lột tả vẻ đẹp trầm buồn của thiên nhiên:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Xem thêm >>> Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang
Xem thêm >>> Phân tích khổ 2 bài thơ Tràng giang
Xem thêm >>> Phân tích 4 câu kết bài thơ Tràng giang
Lâu nay, hình ảnh cánh bèo trôi luôn gợi đến sự mong manh, lênh đênh vô định. Nó còn là hình ảnh gợi về sự rẻ rúm của thân phận con người. Tương phản với sự mênh mông của sông nước, ta thấy hình ảnh cánh bèo lại càng thêm nhỏ bé. Hàng bèo nối đuôi nhau chảy trôi theo dòng nước, không biết sẽ đi đâu và về đâu. Nó gợi liên tưởng đến kiếp người bé nhỏ, đang bơ vơ, lạc lõng giữa đời. Đặt vào hoàn cảnh nước mất nhà tan thì có lẽ đây chính là tình cảnh chung của thế hệ thanh niên đang lênh đênh, vật vờ như mất phương hướng.
Hai câu thơ tiếp theo khắc hoạ khung cảnh mênh mông của sông nước:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Sự hiu quạnh, vắng lặng của không gian dường như được nhân thêm nhiều lần bởi sự phủ định hai lần liên tiếp: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”. Con đò ngang chỉ sự giao lưu, kết nối của con người hai bên bờ sông với nhau nhưng cả dòng nước mênh mông lại chẳng có chuyến đò ngang nào cả. Vậy chiếc cầu bắc qua sông thì sao? Không đò, không có cả cầu dù tác giả đã phóng tầm mắt nhìn ra xa cũng không thấy biểu hiện của sự giao nhau giữa hai bờ sông thông qua cây cầu. Có thế thấy đôi bờ đều là những nơi hoang vắng, ít người qua lại, hai bờ sông như bị chia cắt làm đôi kéo dài tới vô tận. Nó như hai thế giới song song, không gì có thể ảnh hưởng tới bên còn lại, không một chút “niềm thân mật” nào cả. Tất cả chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên chứ không có dấu hiệu của con người, của sự sống nào khác. Đứng trước tình cảnh ấy người thi sĩ giống như càng thấy buồn thương, thiếu vắng đi sức sống. Nhà thơ Huy Cận như cảm thấy bản thân là một thực thể sống duy nhất trơ trọi giữa thiên nhiên nên càng cảm thấy khao khát được gắn bó với con người, với quê hương như hai câu thơ trong bài Đảo:
“Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm”.
Có lẽ câu cuối khổ ba giống như một lời than thở của người thi sĩ trước khung cảnh thiên nhiên:
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Một vẻ đẹp tĩnh lặng, đượm buồn của thiên nhiên, sự tiếp nối của tự nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” hai tông màu tươi sáng nhưng lại kết hợp với từ “lặng lẽ” khiến nó không thể xua đi cái không khí trầm lắng, buồn man mác của dòng sông. Tất cả như lặng lẽ không có lấy một tiếng động nào cả. Đằng sau vẻ đẹp ấy chính là một tâm hồn trăn trở, đau đáu trước cảnh nước mất nhà tan, lo lắng cho tương lai của con người trong hiện tại và tương lai gần không biết trôi dạt về đâu.
Tóm lại, qua khổ 3 bài thơ Tràng giang ta, Huy Cận đã tái hiện khung cảnh trầm buồn, mênh mang của vùng sông nước rộng lớn. Đồng thời bày tỏ tâm trạng của mình khi đứng trước thiên nhiên và trong bối cảnh đất nước bị xâm lược. Dù thời gian trôi qua đã lâu nhưng bài thơ vẫn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả và được các thế hệ sau này đón nhận. Đó chính là thành công của người thi sĩ với đứa con tinh thần của mình.